CHƯƠNG
7: THÀNH NỘI.PHẦN MỘT: VỌNG LÂU
TRÊN CỬA THÀNH.
Thật
là một điều không hợp lý chút nào sau khi rút những người lính TQLC trang bị hiện
đại ra khỏi những đám ruộng nước lầy lội thì lại đẩy họ vào chiến đấu ở một khu
thành lũy xây từ thế kỷ 18 (thật ra là xây vào đầu thế kỷ 19, đời vua Gia Long
-1802-1820 ngd), nhiều hồ ao chung quanh với tất cả những gì khó khăn.
Trong
cuộc chiến tranh xử dụng mìn bẫy, TQLC nếu có ai bị thương nhẹ cũng hy vọng được
nghỉ đôi ba ngày tại trạm nghỉ trước khi trở lại chiến trường. Tuy nhiên, trong
cuộc chiến trên đường phố Huế, bác sĩ và y tá tại trạm xá MAC.V đã phải khó
khăn khi khuyên thương binh khoan trở lại chiến trường. Mấy anh lính trẻ khi bị
thương về trại nghỉ một lúc rồi quay trở lại trạm xá, nói với y tá bây giờ họ
đã khỏe, để được ra đơn vị trở lại. Trung úy Ray Smith, đại đội trưởng Alpha 1/1
thế cho Batcheller, sau khi cuộc chiến chấm dứt vài tuần lễ, viết thư cho đại
úy cũ của anh ta như sau: “Nếu ai ở với TQLC tại Huế trong những ngày đó, không
thể không thương họ. Vài người lính của tôi bị thương nơi chân và tay, đi cà nhắc
vòng quanh để tìm tôi xin được ở lại, không phải tải thương. Họ chiến đấu thật
dũng cảm, rất hòa thuận với nhau, và không khi nào tôi nghe một lời than phiền.
Đó là tinh thần TQLC trong trận đánh Huế.”
GARDEN GROVE,
California Thứ Ba, Ngày 23 Tháng 02 Năm 2016 - Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vừa gởi thư
trả lời Dân Biểu Alan Lowenthal về chuyện yêu cầu tái mở Chương Trình Ra Ði
Trong Trật Tự (ODP) để thương phế binh VNCH có thể nộp đơn xin định cư tị nạn tại
Hoa Kỳ.
Vào
ngày thứ nhì của trận đánh, thứ Năm, ngày 1 tháng 2 năm 1968, Bộ Chỉ Huy LLĐN
X-Ray, cách Huế 8 dặm, bên QL1, trong không khí phức tạp vừa lạc quan, vừa hoài
nghi và tin tức sai lạc. Cọng thêm vào đó là vấn đề cố hữu của các chỉ huy trưởng
ở Việt Nam – do áp lực từ Hoa Thạnh Đốn, muốn nói những gì họ muốn nghe mà
thôi. – Người ta có thể hiểu tại sao Tướng LaHue, khi được phái viên UPI phỏng
vấn nói là vào ngày thứ hai của cuộc chiến: “Hoàn toàn chắc chắn là chúng tôi
kiểm soát phía nam thành phố. Chúng tôi nghĩ là họ (CSBV) không thể nào chịu đựng
nỗi. Tôi biết họ không thể chống đỡ được. Tôi không nghĩ là họ có đủ tiếp tế,
và khi xử dụng hết những thứ họ đem lẻn vào được thì họ không còn gì nữa cả.”
(Bút ký về trận đánh kéo dài 26 ngày
tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế) Vài lời của người dịch:
Có hai lý do chính thúc đẩy tôi dịch tác
phẩm nầy. Thứ nhất là vì chúng ta biết ít về việc người Mỹ đã chiến đấu ở Việt
Nam như thế nào. Tôi là nạn nhân trận đánh Tết Mậu Thân ở Huế, tuy có theo dõi
và quan sát tình hình xảy ra tại chỗ và qua báo chí, đài phát thanh, cũng như
trong thời gian phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, làm phóng sự phát
thanh, phục vụ trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia, tại những vùng quê xa xôi hẻo
lánh; tôi cũng không rõ lắm về những người lính Mỹ đã chiến đấu, chịu nguy hiểm,
thương vong như thế nào.
Có lẽ điều đó không riêng gì tôi mà thôi.
Do đó, tôi dịch cuốn sách nầy để người Việt chúng ta thấy người lính Mỹ đã chiến
đấu và hy sinh ra sao, đã giải phóng những vùng ở Huế bị Việt Cộng chiếm đóng
và giết chóc đồng bào như thế nào.
Nhân mùa 30/4 năm
nay, sau khi nói chuyện qua phone, cựu Tướng Lý Tòng Bá đã gửi tới tòa soạn một
bài ký viết tay, trong đó, Tướng Bá đã viết lại tỉ mỉ những sự thực về trận Áp
Bắc, những sự thực mà một số sách báo ngoại quốc và CS đã xuyên tạc hay bóp méo
sự kiện.
1-Tình hình tổng quát: Vào cuối năm 1967, các mặt
trận khắp 4 Vùng Chiến Thuật tại Nam Việt Nam bùng nổ những trận đánh dữ dội,
chứng tỏ mức độ “leo thang” cuả chính sách quân sự cuả Hoa Kỳ tại miền đất nước
xa xôi này đã lên đến tột đỉnh. Tuy nhiên, tình hình quân sự tại đây không
có gì sáng suả, tốt đẹp như sự mong muốn cuả Ngũ Giác Đài, Quốc Hội, cuả Chính
Phủ cũng như nhiều Tướng Lãnh Hoa Kỳ, đã từng hưá hẹn, cam kết với nhân dân, Quốc
Hội và dư luận truyền thông Hoa Kỳ khi quân đội tác chiến được ào ạt và liên tục
đổ vào Việt Nam.
Đinh Từ
Thức - Từ bốn mươi tám năm qua, cứ mỗi dịp Tết, lại có
nhiều bài viết về vụ Mậu Thân. Nhưng phần lớn, những bài này đều nói về chuyện
xẩy ra ở Huế. Có lẽ vì đó là trận địa đẫm máu nhất, tàn ác nhất. Trong khi ấy,
mặt trận tại Thủ Đô Sài Gòn, nơi có hai địa điểm tiêu biểu cho chính quyền VNCH
là Phủ Tổng Thống, và tiêu biểu cho Hoa Kỳ là Đại Sứ Quán Mỹ đều bị Việt Cộng tấn
công, đã ít được nói tới. Đến nỗi, có nhiều người sống tại Sài Gòn thời đó,
cũng không biết rõ cuộc chiến đã thực sự diễn ra như thế nào, hoặc chỉ biết với
những chi tiết lờ mờ, hay sai lầm.
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi
chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi
viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần
trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã
trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Huế
đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cả thành phố chỉ
còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo Việt Cộng nã đều vào
cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba bánh,
xe xích lô đi hôi của.
Ði
lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền mặc dù cầu
này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ
còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà
không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói với mấy thằng lính đệ tử.
Lên
đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì
số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc,
căng thẳng.
Huy
mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
"Súng
tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
"Còn
gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
"Thì
ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ
mẹ, có xuống không?"
"Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ
mẹ, một."
"Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh
mà."
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi
chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi
viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần
trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã
trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Huế
đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cả thành phố chỉ
còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo Việt Cộng nã đều vào
cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba bánh,
xe xích lô đi hôi của.
Ði
lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền mặc dù cầu
này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ
còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà
không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói với mấy thằng lính đệ tử.
Lên
đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì
số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc,
căng thẳng.
Huy
mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
"Súng
tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
"Còn
gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
"Thì
ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ
mẹ, có xuống không?"
"Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ
mẹ, một."
"Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh
mà."
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
Ngô Dân Chủ -Từ hàng ngàn năm nay trong văn hoá
người Việt, Tết Nguyên Đán là những ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Đó cũng
là những ngày vui nhất trong năm. Nên dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu,
những ai tất tả ngược xuôi làm ăn mua bán đều mong được trở về sum họp dưới mái
ấm gia đình trong 3 ngày Tết. Trong một ý nghĩa thiêng liêng nào đó, Tết còn là
dịp đoàn tụ với cả những người thân đã mất. Tết cũng là cơ hội để người ta quên
đi hận thù, giận hờn năm cũ, hàn gắn những bất hoà. Đó là triết lý về lòng rộng
lượng, tính bao dung vào ngày đầu xuân năm mới của người Việt từ bao đời nay.
Nói tóm lại, Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của
Việt Nam mà ai đi xa cũng nhớ và phải trở về.