Phần 5
Lên
đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì
số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc,
căng thẳng.
Huy
mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
"Súng
tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
"Còn
gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
"Thì
ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ
mẹ, có xuống không?"
"Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ
mẹ, một."
"Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh
mà."
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
Tên
lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh
đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
"Ðụ
mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?"
Ông
thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập,
năn nỉ:
"Anh
tha cho em, anh tha cho em."
"Ðụ
mẹ, một."
"Thôi,
thôi, thôi anh để em xuống."
Lết
ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:
"Anh
tha cho em, anh thương em với."
"Ðụ
mẹ, hai."
Biết
là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống biển.
Cùng
trong thời gian đó, tôi nghe thấy nhiều tiếng súng khác ở nhiều nơi khác nhau
trên tàu.
Huy
mập cho biết:
"Tàu
chở nặng quá nên bị mắc cạn. Hồi nãy cố ra thử nhưng không nổi nên quay đúng một
vòng tròn rồi hết nhúc nhích. Ông thuyền trưởng cho biết là tàu dành riêng cho
Thủy Quân Lục Chiến, nên yêu cầu những ai không phải Thủy Quân Lục Chiến rời
tàu. Ông Râu thấy không, sức mấy mà người ta chịu xuống. Thành ra ông thuyền trưởng
yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến giải quyết. Lính mình tụi nó giải quyết bằng
súng."
"Vậy
thì có nhằm nhò gì đến tôi mà ông bắt tôi phải thủ khẩu súng trong người."
"Bộ
ông tưởng thằng mặc đồ rằn nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến sao. Và bộ ông tưởng
thằng Thủy Quân Lục Chiến nào cũng phải biết ông sao. Trong lúc hỗn quân hỗn
quan này, ông không lo thủ lấy thân còn ai lo cho ông đây."
Tiếng
súng vẫn đì đoành đây đó trên tàu. Xác người vẫn tiếp tục bị ném xuống biển.
Nhiều người vừa khóc vừa nhảy ra khỏi tàu. Những khẩu súng vẫn được kê vào đầu
những người lính Bộ Binh, vẫn đì đoành.
Tình
người!
Tình
chiến hữu!
Tôi
đứng nhìn bất lực. Tôi hoàn toàn bất lực trước cảnh đau xót này.
Thiếu
tá Thành tiểu đoàn trưởng cũng có mặt trên tàu nhưng tôi tìm không gặp. Chắc thiếu
tá Thành cũng chỉ bất lực như tôi.
Gặp
trung úy Nghĩa - Hoàng Trung Nghĩa đại đội 1- hai đứa rủ nhau ra góc tàu phía
sau đài chỉ huy. Nghĩa nói như một lời nhận tội về sự bất lực của mình.
"Tụi
nó giết người dã man quá. Kiếm chỗ khuất này ngồi may ra còn đánh lừa được con
mắt của mình."
Một
người lính còn mặc mỗi cái quần rằn, mặt ngơ ngác, mắt thất thần hai tay giơ ra
phía trước như phân bua như làm chứng cho lời nói chỉ sợ người nghe không tin.
"Vợ
tôi chết rồi, chết dưới biển rồi, thật mà, tôi nói thật mà, vợ tôi chết thật rồi,
chết đuối dưới biển rồi mà!"
Một
cô gái trần truồng, không còn một tí gì gọi là vải trên người, hai tay không
che hết những chỗ cần che trên thân thể nên cũng chẳng buồn che, mặt còn in đủ
những cảnh khủng khiếp vừa trải qua, hai con mắt mở to ráo hoảnh. Còn gì nữa
đâu để mà phải mắc cỡ, còn gì nữa đâu để mà phải khóc lóc. Cô ta đón nhận một
cách hững hờ cái quần của một người lính và cái áo của một người lính khác.
Tôi
nói với Nghĩa:
"Thôi
thì phó mặc, đã leo lên được trên tàu này rồi, sống hay chết, chạy thoát hay bị
bắt nằm ngoài khả năng của mình. Giao hết mọi thứ cho số mạng."
"Mày
cũng đổ cho số mạng cái chết của những người lính Bộ Binh đang bị bắn kia
à?"
Tôi
cãi bướng:
"Mỗi
người có một số mạng tận cùng nên mới có thành ngữ "tận cùng bằng số"."
Số
người trên tàu đã vơi đi thật nhiều, chiếc tàu đã nhẹ hơn trước, nhưng nước thủy
triều xuống còn nhanh hơn nên chiếc tàu vẫn bị mắc cạn. Thêm nữa, một máy tàu bị
hỏng không biết từ lúc nào, thợ máy cũng bó tay, nên chỉ còn một cách duy nhất
là cầu cứu chiếc tàu khác vào kéo.
Mọi
người đều bồn chồn nóng nảy, thủy thủ đoàn lăng xăng gọi nhau ơi ới, tiếng súng
vẫn tiếp tục nổ đì đoành đó đây trên tàu, tiếng khóc, tiếng la, tiếng cười, tiếng
chửi thề cộng chung với nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn độn không thể gọi
tên một cách chính xác.
Thuyền
trưởng là một ông chuẩn úy già - chuẩn úy Tấn - cố gắng một cách liên tục vừa đốc
thúc sửa máy vừa liên lạc với những chiếc tàu khác còn đang qua lại ngoài khơi.
Thời
gian chờ đợi nào cũng dài hơn giờ thực sự của kim đồng hồ.
Một
chiếc tàu từ ngoài khơi quay mũi vào bờ để tiếp cứu.
Thủy
thủ đoàn - gọi là thủy thủ đoàn nhưng thực ra ngoài ông thuyền trưởng già đang
liên lạc máy và người thợ máy đang cố gắng sửa máy dưới hầm, họ chỉ còn khoảng
chừng ba, bốn người - được sự tiếp tay của mấy người Thủy Quân Lục Chiến còn khỏe
mạnh lo chuẩn bị dây cáp để chuyền sang chiếc tàu đang từ ngoài vào.
Nhưng
chiếc tàu vào cứu đã không vào được đến nơi, vì khi còn cách chúng tôi chừng
trăm thước, chiếc tàu đã ăn nguyên một quả tàn tàn - tàn tàn là tên chúng tôi đặt
cho loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT-3 của Việt Cộng. Có lẽ chỉ bị hư một máy nên chiếc
tàu đã từ từ quay mũi và trở ra ngoài khơi. Vị cứu tinh của chúng tôi đã bỏ đi,
niềm hy vọng của chúng tôi đã chạy mất.
Ðến
bây giờ mọi người mới sực nghĩ là mình vẫn còn đang nằm trong tầm súng của Việt
Cộng.
Cảm
giác hãi hùng truyền đến cho tất cả mọi người trên tàu. Chúng tôi đang là những
con cá đã nằm trên thớt, vậy mà không một ai để ý. Mọi người chỉ để ý đến một
điều là tranh giành nhau, bắn giết nhau để có được một chỗ "ngon
lành" trên "cái thớt".
Nhưng
đã trót thì phải trét, không lẽ chúng tôi lại chịu bó tay, còn nước thì còn
tát. Ông thuyền trưởng già lại liên lạc liên tục để xin tàu khác vào cứu, nhưng
hình như hệ thống truyền tin của Hải Quân lúc này đang "hỏng", hay vì
hiệu thính viên của các tàu khác đang "ngủ gục" nên có đến cả gần một
tiếng đồng hồ, ông thuyền trưởng vẫn không liên lạc được với bất cứ một chiếc
tàu khác nào nữa. Giở khóc giở cười, ông ta nói với thiếu tá Thành, tiểu đoàn
trưởng tôi.
"Tôi
không thể nào liên lạc được với những chiếc tàu ngoài kia nữa. Chắc chắn là tụi
nó có nghe nhưng thằng nào cũng lạnh gáy nên không dám trả lời. Bây giờ nhờ thiếu
tá liên lạc qua hệ thống của Thủy Quân Lục Chiến xem có giúp giải quyết được gì
không?"
Thiếu
tá Thành vào đài chỉ huy. Chừng nửa giờ sau, ông ra cho biết:
"Sẽ
có một chiếc tàu nữa vào kéo, nhưng không vào sát trong này. Mình phải cho người
đem dây cáp ra miết ngoài xa giao cho nó."
Một
chiếc ca nô cấp cứu được hạ xuống biển. Kêu gọi và tuyển lựa được một tay lính
Thủy Quân Lục Chiến bơi giỏi và khỏe mạnh xuống theo chiếc ca nô, bơi bằng dầm
để mang dây cáp ra ngoài xa đón chiếc tàu sắp vào.
Nước
thủy triều vẫn đang rút, gió đã ngưng thổi từ lâu, nhưng không hiểu tại sao lại
có sóng. Mọi người đổ dồn cặp mắt vào chiếc ca nô bị sóng nhồi, dập dềnh từ từ
ra biển. Ðã có một chiếc tàu khác quay mũi vào, nhưng với vận tốc của chiếc ca
nô thì còn khướt đầu dây cáp mới đưa được lên chiếc tàu vào cứu.
Ù
uỳnh.
Tiếng
nổ long trời làm tai tôi ù đi, mắt tôi hoa lên, hai hàm tôi tê dại đi. Sức ép của
tiếng nổ làm tôi khó thở, phải há miệng ra để hớp không khí.
Một
quả đạn đã bắn trúng đài chỉ huy.
Dưới
sàn tàu, người ta dồn nhau về bên này, rồi dồn nhau về bên kia, rồi lại dồn
nhau về bên này tàu. Mọi người đều cố tìm một lối để chạy, nhưng, làm gì có lối
nào để mà chạy. Chắc chắn là có rất nhiều người bị chèn, bị ép, bị dẫm, bị đạp
bởi mỗi một lần người ta dồn nhau. Nhiều tiếng la, nhiều tiếng hét, nhiều tiếng
gào vang lên. Nhiều tiếng chửi rủa cũng vang lên.
Trên
boong tàu, cảnh chết chóc mới thật là khủng khiếp. Thịt, óc, quần áo, máu văng
tứ tung trên thành tàu, lên thành đài chỉ huy, máu chảy lênh láng không còn chỗ
nào là không có máu. Những tiếng rên, những tiếng khóc, những tiếng van vái của
những người bị thương hòa lẫn với những tiếng kêu gọi nhau ơi ới của những người
còn nguyên vẹn. Tôi không thể nhận ra được trong đám người chết, trong đám người
bị thương đang nằm trên vũng máu khổng lồ ai là người mình quen, ai là người
trong đại đội mình. Chỉ trừ một người tôi nhận ra, binh nhất Dũng mang băng ca
kiêm thợ hớt tóc của đại đội. Dũng ngồi dựa lưng vào thành tàu, hai chân duỗi
dài, đầu bị chẻ dọc gần như làm đôi, nửa đầu nhỏ hơn gẫy gập xuống gần chấm đến
vai. Óc và máu văng dính vào thành tàu. Tôi nhận ra Dũng nhờ bảng tên không bị
đẫm máu và hai bàn tay có những móng tay để dài hơn móng tay con gái của Dũng.
Thiếu
tá Thành bị thương vào chân đang được y tá băng bó. Ông chuẩn úy Tấn thuyền trưởng
già bị thương vào đầu, đang quấn băng cá nhân quanh trán, trông như người đang
quấn khăn tang.
Tôi
hét to cố át những tiếng ồn ào để hỏi ông thuyền trưởng già:
"Súng
trên tàu còn sử dụng được không?"
Ông
thuyền trưởng già vừa mấp máy đôi môi vừa gật đầu. Tôi lại gần ông ta, nói cũng
vẫn
khá to vì tai tôi vẫn chưa hết bị ù:
"Ông
cho súng bắn tập trung vào cái miếu trên bờ kia kìa."
Trên
bờ đã vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, xa xa phía trong chừng một vài
trăm thước nằm trơ ra độc nhất có một cái miếu thấp thoáng có bóng người.
Những
bụi rậm, những lùm dương còn nằm sâu hơn nữa ở mút phía trong. Khẩu súng đã bắn
chúng tôi chắc chắn là phải được đặt trong miếu.
Bây
giờ chúng tôi lại mới nhận ra được một điều nữa, sau khi quan sát cái miếu và bờ
biển. Mũi cái tàu mắc cạn của chúng tôi chỉ còn cách mé nước khoảng chưa đầy ba
thước. Cả cái tàu đã nằm phơi gần hết thân trên cát.
Thiếu
tá Thành ra lệnh cho ông thuyền trưởng và tôi:
"Huy
ở trên này cho lính bắn tập trung vào cái miếu để yểm trợ. Ông thuyền trưởng
cho hạ bửng tàu xuống để mọi người lên bờ.. Khi lên bờ xong, Huy cho nhặt súng
đạn chuyển lên bờ cho mọi người. Ông thuyền trưởng cho gom tất cả những dụng cụ
đựng nước ngọt và thực phẩm mang lên bờ."
Tiếng
súng nhỏ từ trên bờ bắt đầu bắn ra tàu khi cái bửng được từ từ hạ xuống.
Dưới
sàn tàu đã nhốn nháo từ khi bị quả đạn, bây giờ lại càng nhốn nháo hơn vì cái bửng
tàu không còn là vật che đạn cho mọi người nữa.
Bằng
cái loa trên tàu, thiếu tá Thành ra lệnh:
"Tất
cả mọi người rời khỏi tàu lên bờ. Càng nấn ná trên tàu bao nhiêu càng dễ chết bấy
nhiêu."
Súng
trên tàu nổ ròn nhưng vẫn không đủ khả năng làm câm họng những khẩu súng bắn từ
trên bờ.
Nhiều
người ngã chết ngay trên bửng tàu, nhiều người ngã chết ngay trong lòng tàu.
Nhiều
người vẫn tiếp tục nhảy vào bờ.
Bây
giờ không còn gọi được là lên bờ vì bửng tàu đã lên cao hơn mặt cát có đến hơn
một thước. Vượt qua được cái "ải" bửng tàu là đã được an toàn vì vào
sâu trong bờ chừng chục thước có một bờ cát cao lên che khuất được đầu người.
Nhiều
người không dám vượt qua cái ải bửng tàu, nằm co rúm, nép người vào thành tàu.
Nhưng
không dám vượt qua bửng tàu để vào bờ vẫn không thể được coi là an toàn. Nhiều
quả đạn M-79 đã được bắn vòng cầu rơi vào nổ ngay trong lòng tàu, nổ ngay trên
sàn tàu.
Tôi
vẫn cố gắng quan sát vị trí của địch để chỉ điểm mục tiêu cho những khẩu súng
trên tàu, nhưng ngoài cái miếu ra, tôi chỉ có thể biết thêm được là Việt Cộng
còn nằm rải rác đằng sau những mô cát thấp. Bắn thì chúng tôi cứ bắn chứ kết quả
thì không đáng kể, chỉ đủ làm giảm bớt tiếng súng của địch một phần nào gọi là
thôi.
Mũi
tàu đã được hạ bửng là một mục tiêu cố định và ngon lành cho những tay súng của
Việt Cộng tập bắn. Nhưng dù thế nào, số người vào được trong bờ vẫn mỗi lúc một
đông thêm.
Thiếu
tá Thành đã vào bờ trước, ông đang bố trí mọi người để lập thành một tuyến
phòng thủ mới.
Khi
trên tàu đã vắng người, khi tiếng súng đã thưa và khi tại tuyến phòng thủ mới
đã có thể bắn cầm chừng, tôi và mấy xạ thủ trên tàu mới nhảy xuống sàn tàu, lại
một cảnh chết chóc nữa đập vào mắt tôi. Những người bị giẫm nát không còn hình
thù của một con người, thịt da nhầy nhụa.
Những
người bị dồn ép ngộp thở mà chết trông khá nhất, họ nằm chết trông như ngủ.
Những
người bị đạn bắn chết nằm gục ngang gục ngửa, có người bị trúng đạn ở đầu, có kẻ
trúng mặt, người trúng ngực, kẻ trúng bụng.
Họ
trúng đạn đủ chỗ và nằm chết đủ kiểu.
Những
người bị thương đang quằn quại, rên la.
Có
người ngồi gục đầu xuống, máu từ ngực phụt ra có vòi như vòi nước.
Chẳng
ai buồn nghĩ đến chuyện mang những người bị thương vào bờ. Nằm trên tàu hay
khiêng vào bờ nào có khác gì nhau. Có biết đến bao nhiêu người bị thương, làm
sao mà lo cho xuể trong khi chính những người còn khỏe mạnh lo cho nhau, lo cho
mạng sống của mình còn chưa xong. Tôi thấy trung úy Chức tiểu đoàn 2 Pháo Binh
bị thương không biết nặng nhẹ, máu ướt đẫm áo quần, nằm thoi thóp.
Tôi
ngạc nhiên khi thấy cô gái Huế học Văn Khoa đang ngồi vái trời vái Phật, miệng
ngoác ra mà khóc. Không hiểu tại sao cô nàng lại ở trên tàu. Ðúng ra cô ta đã
phải ở trên chiếc tàu cùng với lữ đoàn trưởng và lữ đoàn phó của tôi, đang lênh
đênh ở ngoài khơi kia.
Nhưng
tôi cũng chẳng có thời giờ đâu mà thắc mắc. Tôi nói lớn với cô ta:
"Thôi
chứ cô nàng, không lo mà vô bờ đi, còn bày đặt mà ngồi đó vái cái thành
tàu."
Bưởi
nói với tôi:
"Con
nhỏ này là Việt Cộng đó ông thầy, nó ngồi trên tàu làm bộ khóc, làm bộ vái trời,
chứ thật ra là chỉ điểm cho Việt Cộng. Ông nhớ không, hồi tối ở tuyến nó cũng
khóc rùm trời."
Tôi
phì cười:
"Bộ
mày tưởng nó ngồi đó làm hiệu rồi Việt Cộng tránh không bắn nó, hay mày tưởng đạn
của Việt Cộng biết nó cùng một phe nên né nó."
"Chứ
sao nó ngồi trên đó mà không trúng đạn?"
Tôi
không thể trả lời và cũng không thể giải thích như thế nào. Mọi câu trả lời nếu
được thỏa đáng đều phải vịn vào một đấng vô hình.
Tôi
vào bờ cát. Tiếng súng đã im.
Trời
đã về chiều, hình như là ba hay bốn giờ gì đó.
Chúng
tôi đứng một hàng dọc dọc theo bờ cát.
Mặt
trời chiều chiếu thẳng vào mặt.
Sóng
vỗ nhè nhẹ sau lưng.
Tôi
nhìn quanh cố tìm những khuôn mặt quen thuộc trong đại đội, chẳng có bao nhiêu,
chừng năm, bảy mạng gì đó. Ðâu rồi đại đội trưởng, đâu rồi Huy mập, đâu rồi Ngô
Dzu, đâu rồi Khải máy, Phước râu, đâu rồi Ðăng.... đâu rồi tụi bay?
Lòng
tôi chùng xuống, nước mắt trào ra. Bao nhiêu gian lao, bao nhiêu khổ ải từ bao
nhiêu năm nay không sao, không lẽ lại rủ nhau cùng chết một cách đau thương tức
tưởi và lãng nhách ở đây hay sao?
Thiếu
tá Thành từ phía đầu kia của tuyến đi lại:
"Ông
Huy, súng đạn của mình hiện giờ ra sao rồi?"
"Không
bao nhiêu hết, thiếu tá. Tôi đang cho người đi nhặt súng đem xuống rửa dưới biển."
Vừa
lúc, một chiếc GMC từ phía nam đi trờ tới, thiếu tá Thành chận xe lại và nói với
tôi:
"Huy
ở đây chỉ huy tuyến này. Tôi đi kiếm thêm súng đạn."
Chiếc
GMC tiếp tục chạy lên hướng bắc, trên xe chỉ có thiếu tá Thành và người tài xế.
Tôi
đi một vòng dọc tuyến, thấy mấy người lính tiểu đoàn 2 Pháo Binh, tôi nói với họ:
"Tụi
bay lên tàu khiêng trung úy Chức xuống."
Ðiều
này gợi tôi quyết định lập một toán khỏe mạnh lên tàu khiêng những người bị thương
xuống. Nhưng dĩ nhiên cũng chỉ khiêng những ai là Thủy Quân Lục Chiến, còn những
người thuộc các binh chủng khác thôi thì kệ họ.
Tôi
cũng cho người lên tàu kiếm đạn và đồng thời tìm cách chuyển nước ngọt xuống tiếp
tế cho mọi người.
Tôi
hơi ngạc nhiên khi thấy những người lính này, không phải là tất cả nhưng cũng
không phải là ít, lúc nãy khi còn ở trên tàu, họ hung hăng dữ tợn bao nhiêu thì
bây giờ họ lại hiền lành ngoan ngoãn bấy nhiêu. Tuyến phòng thủ cấp thời này được
tập hợp bằng những người lính của khá nhiều đơn vị khác nhau của Thủy Quân Lục
Chiến, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 2 Pháo
Binh, lính Vận Tải, Truyền Tin, lính Quân Y, Viễn Thám... Tôi không phải là cấp
chỉ huy trực tiếp của họ, lúc nãy họ có thể hứng chí tặng tôi một viên vào đầu
sau những tiếng đếm đụ mẹ một, đụ mẹ hai, đụ mẹ ba. Nhưng bây giờ họ tuân lệnh
tôi một cách tuyệt đối.
Kỷ
luật quả thật là một yếu tố căn bản để tạo thành sức mạnh của quân đội. Khi đã
mất chỉ huy, khi mọi thằng đã bằng nhau thì thằng nào mạnh, thằng nào có súng
thằng ấy nắm quyền sinh sát. Khi tình trạng bằng nhau đã hết, tình trạng hỗn
quân hỗn quan đã hết, khi sự chỉ huy được tái lập, mọi người lại răm rắp đâu
vào đấy.
Bây
giờ đến lượt chính tôi kê súng vào đầu một người lính, tay này to cao như một
thằng Mỹ, cởi trần trùng trục, xâm đầy hình và chữ trên tay, trên lưng, trên ngực,
tay khư khư ôm một khẩu M-79, đã không dám đứng dậy để chiến đấu, mà lại cũng
không chịu giao súng cho ai. Tôi nói:
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, mày không đứng dậy hoặc không đưa súng cho tao, đụ mẹ, tao
bắn."
"Súng
của em mà trung úy."
"Ðụ
mẹ, một."
"Em
mệt quá rồi trung úy, trung úy cho em ngồi nghỉ mệt chút rồi em đứng dậy, trung
úy."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
ơi, ông giết em thật sao trung úy?"
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
"ba" chưa dứt, tên lính vội vàng đưa khẩu súng M-79 bằng cả hai tay
cho tôi, miệng lắp bắp:
"Súng
đây trung úy, súng đây trung úy."
Tôi
lấy khẩu súng giao cho một người lính đứng cạnh đó.
Tôi
không cố tâm bắn chết người lính này, nhưng nếu anh chàng không giao súng cho
tôi hoặc không đứng dậy để chiến đấu, thôi thì cũng đành vậy. May cho anh chàng
và cũng may cả cho tôi!
Không
có bóng dáng một người lính Bộ Binh nào trong tuyến này. Khi xuống tàu thì
tranh giành cũng ra gì lắm, nhưng khi cần phải cầm súng đánh nhau với Việt Cộng
thì chỉ còn chúng tôi. Phải chăng họ hận chúng tôi vì chuyện vừa xảy ra trên
tàu hay vì chúng tôi là những thằng được khoán trắng cho việc đánh trận. Trừ một
số người tuy không bị thương nhưng vẫn nhất định nằm lì lại trên tàu -không hiểu
họ còn hy vọng gì nơi cái tàu đã nằm hơn nửa thân trên cát- những người còn lại
không biết đã chạy biến đi đâu mất.
Sự
vắng mặt của những người lính Bộ Binh đã làm nhiều người lính Thủy Quân Lục Chiến
càng thêm tin là quả đạn bắn vào đài chỉ huy chiếc tàu lúc nãy là do những người
lính của sư đoàn 1. Những lời bàn tán và đồn đãi:
"Bọn
sư đoàn 1 bị bắn và bị đuổi xuống tàu đã lấy đại bác 57 ly không giựt bắn vào
tàu. Không được ăn thì đạp đổ!"
Tôi
không tin điều này, vì những người lính Bộ Binh làm gì còn súng 57 ly trong lúc
này. Nhưng những lời đồn và bàn tán mỗi lúc một nhiều cũng khiến tôi bắt đầu
nghi ngờ sự suy đoán của mình.
Người
tài xế chiếc xe GMC chở thiếu tá Thành đi kiếm đạn lúc nãy hớt hơ hớt hãi chạy
bộ về. Anh ta báo cáo với tôi:
"Thiếu
tá bị bắt rồi trung úy."
"Tại
sao mày lại về được đây?"
"Em
chở thiếu tá đi lên cách đây chừng hai cây số, bị Việt Cộng chận lại. Em khai
là binh nhì, thiếu tá ổng khai là hạ sĩ. Tụi nó tịch thu xe rồi nói em thay đồ
dân sự về Huế mà sống, hình như tụi nó biết thiếu tá là sĩ quan nên bắt đi
theo. Em lừa lừa rồi trốn về đây."
Niềm
hy vọng kiếm thêm được súng đạn đã tiêu tan, cấp chỉ huy của tôi đã bị bắt.
Súng đạn đi mót nhặt tại chỗ dù đã rỉ sét vẫn không đủ cung cấp cho chúng tôi
trong khi chúng tôi vẫn bắt buộc phải bắn cầm chừng để giữ chân Việt Cộng. Sau
một hồi bàn bạc với các sĩ quan khác, tôi quyết định bỏ cái tuyến này, rời xa
chiếc tàu mắc cạn, kéo nhau vào tuyến của lữ đoàn còn đang chiến đấu ở phía
nam, nơi mà chúng tôi đã tách ra hồi sáng để kéo nhau xuống tàu.
Khi
về gần đến tuyến của lữ đoàn, chúng tôi bị một loạt đạn đại liên từ chiếc M-113
đậu ngang tuyến của tiểu đoàn 5 bắn xẹt trên đầu chúng tôi.
Mấy
người lính tiểu đoàn 5 đứng trên chiếc thiết vận xa khoát khoát tay ra hiệu
không cho chúng tôi vào tuyến.
Chúng
tôi giơ hai tay lên đầu giống như những kẻ đầu hàng để chứng tỏ chúng tôi không
còn khả năng chiến đấu. Vừa giơ tay chúng tôi vừa tiếp tục đi tới. Lần này khẩu
đại liên trên chiếc M-113 nhắm thẳng chân của những người đi đầu của chúng tôi
mà bắn, đồng thời chúng tôi còn lãnh thêm mấy quả đạn M-79. Bốn, năm người bị
thương ngã lăn ra cát.
Từ
sáng đến giờ, thời gian chưa đầy mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã trải qua
không biết bao nhiêu nỗi kinh hoàng. Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu hy vọng
đã tiêu tan. Bây giờ trở về để nương nhờ những người bạn, những đồng đội trong
cùng binh chủng. Nhưng cánh cửa đã khép chặt, chúng tôi bị xua đuổi bằng những
tràng đại liên, bằng những viên đạn M-79. Thiếu tá Tiền tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 5 mới hôm qua hôm kia đây còn nói với Huy mập "Thầy trò mày rán làm
cho tao cú nữa, đây là trận đầu của tao ở bên này", trong khi thầy trò Huy
mập đã tanh banh hết. Vậy mà bây giờ, chính lính của ông -dĩ nhiên họ làm theo
lệnh- vác đại liên, vác M-79 ra bắn xua đuổi chúng tôi.
Chúng
tôi tấp vào bờ cát, cách tuyến của tiểu đoàn 5 chừng bốn, năm chục thước.
Ngồi
đây, ngoài tuyến hay vào trong kia - trong tuyến - thực sự đối với tôi chẳng
khác gì nhau. Ðạn Việt Cộng không chừa một chỗ nào và cũng không chừa một ai.
Trong tuyến mới đúng là nơi thu hút hỏa lực của địch, còn chúng tôi nằm ngoài,
cảm thấy không an tâm chỉ là tâm lý, không an tâm vì mình đã mất khả năng tự vệ
và bị từ chối sự bảo vệ của những người mình trông đợi.
Mấy
người bị bắn ngã đã được đưa vào tuyến.
Lính
tráng thắc mắc tại sao họ không được cho vào tuyến. Trung sĩ nhất Ðăng thường vụ
đại đội hỏi tôi:
"Ông
thầy, mình cũng là Thủy Quân Lục Chiến chứ đâu phải là Bộ Binh, tại sao họ
không cho mình vào tuyến?"
"Tiểu
đoàn mình tan hàng rồi, mình vào tuyến bây giờ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần chiến
đấu của những thằng đang đánh nhau trong đó."
"Ảnh
hưởng mẹ gì, ông thầy, mình vô tuyến rồi kiếm chỗ nằm tránh đạn ở mút đàng sau
này chứ mình đâu có lên đàng trước đâu mà làm mất tinh thần của tụi nó."
"Mày
nên nhớ là họ chỉ cần nghe tin là tàu không bốc được tụi mình, tinh thần của họ
đã bị nhụt hẳn đi rồi, cần gì phải đợi mình kể lại. Mà mày không thấy nằm đây
mình không bị đạn bắn tới, đâu cần phải tìm chỗ tránh đạn ở trong tuyến nữa."
Tôi
chưa nói dứt câu, nhiều loạt đạn nhắm thẳng chúng tôi bay tới. Việt Cộng đã về
đến chỗ tàu mắc cạn. Thầy trò cha con chúng tôi ùa chạy vào tuyến, đạn Việt Cộng
bắn vãi sau lưng.
Những
người lính tiểu đoàn 5 trên M-113 thản nhiên ngồi chờ cho đến khi chúng tôi vào
hết trong tuyến mới bắt đầu bắn trả về phía tàu mắc cạn.
Tuyến
phòng thủ của lữ đoàn từ chiều hôm qua chỉ bị tấn công một mặt từ hướng tây, nơi
tiểu đoàn 7 bàn giao tuyến lại của tiểu đoàn 4 tôi. Bây giờ bị thêm một mặt tấn
công mới từ hướng bắc.
Xạ
trường bằng phẳng, những loại súng bắn thẳng không bị cản trở bởi bất cứ một chướng
ngại nào. Những người lính trên M-113 đã rời xe, xuống những hố cá nhân đào
quanh đấy.
Chúng
tôi, những thằng hết khả năng tác chiến, moi vội những cái hố ở phía sau những
cái gọ của dân nằm úp đáy trên mặt cát.
Tiếng
súng nhỏ nổ đì đoành trên tàu mắc cạn. Hình như Việt Cộng đang bắn những người
còn nằm lại trên tàu.
Ðây
là lần thứ hai tôi được xem, một cách rất bàng quan, những người lính Thủy Quân
Lục Chiến đánh trận. Lần đầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 73, buổi chiều cuối
cùng trước giờ ngưng bắn có hiệu lực tại Cửa Việt. Tiểu đoàn 4 tôi được tăng cường
hai đại đội của tiểu đoàn 2 và một đơn vị Thiết Giáp - tôi không rõ cấp đơn vị
- lập thành lực lượng đặc nhiệm Tango do chính đại tá tư lệnh phó làm tư lệnh lực
lượng. Lực lượng chúng tôi có nhiệm vụ bằng mọi giá cắm cờ ở Cửa Việt trước 8
giờ sáng ngày 28 tháng Giêng. Trung đoàn Việt Cộng 48 phòng thủ.
Từ
chạm tuyến lên đến mục tiêu khá xa, có đến mấy cây số nên từng nấc dọc đường được
chia thành nhiều mục tiêu phụ, chúng tôi từng đại đội một chia nhau chiếm từng
mục tiêu. Ðiểm xuất phát của đại đội tôi là mục tiêu mà một đại đội của tiểu
đoàn 2 đánh chiếm. Ðại đội tôi di chuyển một cách thoải mái từ phía dưới lên. Ðại
đội trưởng tôi lúc đó là trung úy Tước - Dương Tấn Tước - gọi tôi lại gần và chỉ:
"Ông
có thấy chiếc M-48 đang cháy kia không?"
"Thấy,
Sao Mai."
"Rồi,
ông dắt con cái vô đó."
Một
cái lệnh hành quân rất nhẹ nhàng và dễ dàng. Nhưng thực sự, nói vậy mà đâu phải
vậy, M-48 mà cháy thì mục tiêu đâu phải là nhẹ ký. Tôi vào đến nơi được xem những
người lính của tiểu đoàn 2 đang chiếm mục tiêu. Những người lính của tiểu đoàn
2 này không hổ danh với chính cái tên mà Việt Cộng đã đặt cho họ, tiểu đoàn
Trâu Ðiên. Họ xung phong, họ xông xáo vào tuyến phòng thủ của Việt Cộng như vào
chỗ không người. Có chết chóc đấy, có bị thương đấy nhưng Việt Cộng không thể
nào cản được bước chân của họ. Có một trung đội quá hăng máu, tiến quá nhanh, vượt
qua khỏi mục tiêu tiến quá sâu vào phần đất dầy đặc Việt Cộng, nên đã bị bao
vây, không hầm hố, không mô cát để ẩn nấp, họ trở thành điểm tập trung tác xạ của
không biết bao nhiêu tay súng Việt Cộng.
Trung
đội Trâu Ðiên này vẫn tả xung hữu đột, vẫn bình tĩnh chiến đấu như đang thực tập
một bài chiến thuật trong quân trường.
Khi
đại đội tôi lên và giải vây cho họ xong, một người lính nhìn tôi cười nói:
"Ðụ
mẹ, đánh giặc đã quá, ông thầy!"
Lần
này là lần thứ hai, tôi nằm sau một cái gọ lật úp làm nơi ẩn nấp, quan sát những
người lính của tiểu đoàn 5 chiến đấu. Lần này, cái hăng say, cái nhuệ khí của
thế tấn công không có, chúng tôi đang ở cái thế bị bao vây, lương thực chúng
tôi hết cạn, đạn dược chúng tôi hết gần sạch banh, đường về chúng tôi không có.
Chúng tôi đang ở trong cái thế bi thảm nhất cả về tinh thần lẫn phương tiện chiến
đấu. Vậy mà những người lính của tiểu đoàn 5, mấy con "đỉa đói" này vẫn
vừa đánh giặc vừa cười đùa. Có hai người lính đầu không mũ sắt, mình không áo
giáp, chân không giày, một người ôm nòng khẩu súng cối 60 ly được bọc bằng mấy
cái áo giáp cho khỏi nóng, một người cầm mũ sắt làm bàn tiếp hậu, tay cầm quả đạn,
cứ thế họ đặt súng chỗ này bắn một hai quả, đặt súng chỗ khác bắn một hai quả.
Vừa bắn vừa cười nói bô bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm
mũ sắt, quả đạn bên tay phải rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra
xa. Một người lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người
lính ôm nòng súng nhìn người bạn vừa ngã chết, miệng cười tươi như không có gì
xảy ra:
"Ðụ
má, chết sớm dzậy mảy?"
Người
xạ thủ thứ hai rướn người lên rồi ngã xuống vì viên đạn trúng vào bụng.
Người
thứ ba cầm mũ sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bắn viên nào thì cả xạ thủ lẫn
người ôm nòng súng ngã vật ra chết.
Nòng
khẩu súng cối 60 ly nằm chúi họng xuống cát. Tôi ngồi xem hào hứng đến độ quên
luôn rằng cái gọ đang làm vật che đạn cho tôi cũng trúng khá nhiều đạn, trong
khi cái đầu tôi mỗi lúc một rướn cao lên để xem cho rõ.
Nắng
tắt dần, gió biển mỗi lúc một lạnh hơn.
Tôi
thấy gai gai người, mới sực để ý mình đã cởi áo từ lúc nào và cũng không thể
nghĩ được là tại sao mình đã cởi áo.
Bưởi
xuất hiện đột ngột, từ bên hông một cái gọ nào đó chạy tới.
Trên
người mặc có mỗi cái quần lót và cái áo giáp.
Gặp
Bưởi lúc này còn hơn bắt được vàng. Bưởi ôm chầm lấy tôi:
"Ông
thầy, em kiếm ông thầy quá trời."
"Mày
ở đâu chạy tới đây?"
"Em
đi kiếm ông thầy quá trời. Ai moi cho ông thầy cái lỗ này?"
"Tao
moi mình ên."
Bưởi
cười cười:
"Hèn
chi."
Tôi
cũng cười cười:
"Hèn
chi gì mày?"
"Ông
thầy qua chỗ em đi. Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu
lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm. Ông thầy nằm kiểu này nếu chết đúng là cái lỗ
không đủ chôn."
"Ðụ
mẹ, trù ẻo mày."
"Thiệt
mà. Mà bây giờ về em phải đào cho rộng thêm."
"Sao
vậy?"
"Hồi
nãy đi kiếm ông thầy, em gặp một cái "lỗ". Em mang "con lỗ"
về nằm chung. Ấm lắm ông thầy ơi."
Tôi
cười cười, gian ý:
"Coi
được không mày?"
"Trời
ơi, số một mà ông thầy. Mà thời buổi này ông còn bày đặt kén nữa hả?"
"Ðâu
có kén, mà đều cũng phải đỡ đỡ một chút chứ hôi rùm ai mà chịu nổi."
"Ðâu
có hôi, ông thầy, con nhỏ cũng mới tắm biển lên mà."
Hai
thầy trò tôi nháy mắt nhìn nhau cười.
Bưởi
cởi áo giáp đưa cho tôi:
"Ông
thầy mặc đi rồi mình dzọt."
Tôi
ngần ngừ:
"Thôi
mày mặc đi."
Bưởi
nhất định không chịu:
"Ông
không thấy đạn bắn quá trời sao? Ông chạy đâu có lẹ bằng tôi."
"Mày
tưởng chạy lẹ là không ăn đạn à?"
"Mà
bộ ông không thấy lạnh hả? Người ông nổi gai ốc cùng mình kìa."
Quả
thật, gió biển mỗi lúc một mạnh hơn, tôi đã rùng mình nổi da gà sau mỗi lần gió
thổi, hai hàm răng tôi đã bắt đầu đập vào nhau. Người tôi đã run lên vì lạnh. Hết
phương từ chối, tôi mặc áo giáp vào rồi băng mình chạy theo Bưởi.
Chúng
tôi chạy từng quãng ngắn từ cái gọ này sang cái gọ khác.
Ðến
cái gọ cuối cùng trước khi đến chỗ Bưởi nằm, tôi gặp Khải máy và Phước râu.
Tôi
la lên vì mừng:
"Ðụ
mẹ, cả hai thằng mày còn sống hả?"
Khải
máy có cái tên rất lịch sử -Trần Quang Khải- ôm chầm lấy tôi:
"Ba
thằng tụi em chia nhau đi kiếm ông thầy. Em với thằng Phước râu mới về tới
đây."
Phước
râu bây giờ mới lên tiếng:
"Tui
thấy trung úy Gắt ngồi đằng kia kìa. Ðụ mẹ, ổng thủ nguyên một bao cát gạo sấy
thịt hộp. Thấy tui ổng ngó lơ. Kệ mẹ ổng chớ, ai thèm xin."
Nói
đến gạo sấy và thịt hộp, tôi mới thấy đói. Suốt từ trưa hôm qua tới giờ tôi có
ăn uống gì đâu. Mà cũng có gì đâu để mà ăn uống. Ngoại trừ sáng nay ngồi uống rượu
với bọn thiếu úy Sĩ, tôi lại có tật hễ uống rượu vào là không ăn gì nên tuy có
đồ ăn nhưng tôi có nhét được miếng nào vào bụng đâu. Tuy nhiên, cái đói chỉ
thoáng qua rất nhanh.
Tôi
an ủi:
"Ðói
lúc này đâu có chết tụi bay. Tao cũng đói. Nhằm nhò gì!"
Bưởi
giục:
"Mình
về bên kia đi ông thầy."
Khải
máy dặn dò:
"Tụi
em nằm đây, khi nào chạy kêu tụi em nghe ông thầy."
Tôi
và Bưởi băng qua một quãng trống ngắn, về đến hố của Bưởi.
Người
con gái nằm trong hố, chùm poncho chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể
cũng dễ coi.
Vừa
xuống hố, Bưởi ra lệnh:
"Ngồi
dậy đi bà nội, lấy chỗ để tôi moi rộng thêm cho ông thầy nằm."
Người
con gái ngồi dậy, vẫn quấn chặt cái poncho.
Bưởi
khoét cái hố rộng ra thật nhanh bằng mũ sắt.
Tôi
cởi áo giáp:
"Trả
mày cái áo giáp, lấy trả tao cái jacket."
"Em
vứt dưới biển rồi ông thầy."
Tôi
tiếc ngẩn ngơ:
"Ðụ
mẹ, sao mày vứt của tao đi?"
"Lúc
lội ra tàu mọi thứ em bỏ hết, em đâu dám vứt áo của ông thầy. Em mặc trong người,
có điều ở dưới biển lâu nó ngấm nước, nặng quá trời luôn. Em mà không cởi ra bỏ,
dám em bị chết chìm luôn rồi."
Cả
cuộc đời nhà binh bảy năm, gia tài của tôi chỉ có mỗi cái áo jacket này. Nó là
cái field jacket của Mỹ, áo thật dầy, có cả mũ. Tôi lựa đúng cỡ người, hy sinh
một bộ đồ bệt mới tinh để đắp ra ngoài. Cái áo tôi mơ ước. Tôi mới có được cách
đây chừng hơn một tháng. Sài Gòn nóng như thế mà khi về phép tôi còn mang theo
để tối tối, trời vừa đủ hơi man mát là tôi lấy ra mặc. Mất Quảng Trị, mất Huế
tôi không tiếc bằng mất cái jacket này. Nhưng làm sao bây giờ, mất thì đã mất rồi,
mà lỗi thì không thể đổ lỗi cho Bưởi. Tôi trong trường hợp nó cũng phải làm như
vậy thôi.
Việt
Cộng ở phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến vì tôi nghe tiếng súng mỗi
lúc một chát chúa hơn. Tiếng súng phòng thủ của tiểu đoàn 5 chỉ còn là cầm chừng
vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn.
Bưởi
vừa mặc áo giáp vừa nói:
"Ông
thầy nằm đắp chung poncho với con nhỏ này, em đi tìm cho ông thầy cái áo giáp.
"Thôi
Bưởi, nguy hiểm mày."
"Gần
ngay đây mà ông thầy."
Nói
chưa dứt, Bưởi đã chạy vụt đi.
Tôi
nằm đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ người nàng làm tôi khó chịu, không
phải tôi khó chịu cô gái mà tôi khó chịu tôi. Ðời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh
này, người ta ai cũng phải lo mà giữ sức khỏe, còn tôi, tôi lại muốn phung phí
sức khỏe. Bộ chưa đủ mệt hay sao?
Bàn
tay tầm bậy của tôi mầy mò tứ tung trong poncho. Cô gái không có thái độ hoan
hô hay đả đảo gì ra mặt, nhưng người cô ta đang từ âm ấm chuyển dần sang nóng,
hơi thở dồn dập và rõ tiếng hơn. Ðến một lúc thuận tiện, tôi tìm một vị thế
thích hợp. Nhưng vị thế thích hợp đã không có với chúng tôi. Cát dính lung tung
lên người chúng tôi, ở dưới hố thì hố được đào cong vòng như cái võng, kéo nhau
lên trên miệng hố, đạn Việt Cộng bay loạn xạ ở tầm rất thấp.
Rất
thèm, nhưng thôi thì đành chịu, lắc đầu, chép miệng, "ngậm ngùi".
Suốt
từ lúc tôi về đến cái hố này, cô gái vẫn không nói một tiếng, và tôi cũng không
nói một tiếng nào với cô ta.
Khải
máy nói vọng sang từ cái gọ bên cạnh trong khi tay tôi vẫn đang mầy mò tầm bậy
trong poncho:
"Người
ta chạy hết rồi ông thầy ơi."
"Thằng
Bưởi chạy đi kiếm áo giáp cho tao chưa về."
"Chắc
nó chạy luôn theo mọi người rồi."
"Chắc
không đâu, đợi nó một chút nữa thử coi."
Phần 6
Trời đã tối, tiếng súng bắn đi đã êm,
chỉ còn những tiếng súng Việt Cộng bắn chúng tôi. Tiếng chân người chạy mỗi lúc
một nhiều về hướng nam.
Khải máy và Phước râu chạy đến chỗ
tôi. Khải máy la lên:
"Trời ơi ông thầy, người ta chạy
hết rồi, ông còn nằm đó mà "moi lỗ"!"
"Còn phải đợi thằng Bưởi nữa chứ."
"Ðợi gì nữa mà đợi. Có thể nó đã
chết rồi, cũng có thể nó đã chạy rồi."
Tôi quay sang cô gái:
"Thôi, chạy đi cô em."
Cô gái nhìn tôi, lắc đầu.
Tôi đứng dậy, chạy theo Khải máy và
Phước râu.
Chúng tôi chạy lom khom qua hết những
cái gọ nằm rải rác trên bờ, nhập vào dòng người đang chạy sát mé nước.
Chạy thì cứ chạy, không lẽ mọi người
đã chạy mà mình lại không chạy, nhưng thực sự tôi không hiểu là chạy để làm gì,
và chạy đi đâu, chạy về hướng nam tức là chạy về phía cửa Tư Hiền. Tôi chẳng buồn
nghĩ là chạy về đó rồi sẽ làm gì, và mình có chạy nổi về đó hay không.
Phước râu đề nghị:
"Hồi nãy tụi nó tự tử nhiều quá,
hay là mình tự tử luôn đi ông thầy."
Khải máy góp ý:
"Có lý đó ông thầy. Mình chạy như
vầy để làm cái gì?"
"Không, tụi mày ngu thấy mẹ. Người
ta cắt đất để giao cho Việt Cộng. Tụi mình dở nên mình bị kẹt. Nếu bị bắt cũng
chừng vài tháng chứ mấy, khi nào được trao trả về, đụ mẹ, đánh lại."
"Làm tù binh của Việt Cộng chịu
gì nổi ông thầy."
"Cái gì mà không nổi, tụi mày
không thấy tù binh được trao trả hồi ngưng bắn à, người ta ở tù bao nhiêu năm
người ta còn chịu được. Bộ tụi mày không thấy thiếu úy Bông, chuẩn úy Nhường
à!"
Tiếng súng phía sau lưng đã hết, nhưng
dòng người chúng tôi lại bị ăn đạn từ phía trong bờ mỗi lần chúng tôi chạy
ngang một cái chốt của Việt Cộng. Cũng có những tràng súng, cũng có những quả lựu
đạn được bắn trả, được ném trả vào những cái chốt đó. Không biết có giết được mạng
nào không?
Việt Cộng được dịp bắn thả cửa vào
chúng tôi. Số người trúng đạn không phải là ít.
Tôi nói với hai thằng đệ tử:
"Chạy trên cát thì lẹ nhưng mà
nguy hiểm quá, trong khi mình đâu cần chạy nhanh hay chạy chậm. Chạy dưới nước
chậm hơn nhưng an toàn hơn. Ðạn bắn ra chỉ trúng thằng chạy trong thôi."
Phước râu và Khải máy mỗi đứa chạy một
bên để đỡ tôi, khi nào mệt tôi choàng cổ hai đứa để được dìu chạy, khi nào tôi
chạy được một mình, Phước râu lại tấp vào phía trong bờ, chạy trên cát.
Tôi ngạc nhiên:
"Mỗi lần buông tao ra mày chạy
trên cát cho đỡ mệt hả?"
"Tui đâu có mệt ông thầy, chạy
phía này lỡ có bị bắn tui còn che được cho ông chớ."
Tôi xúc động ứa nước mắt. Khải máy đã
từng về dự đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài Gòn, nhưng vì là gốc quân phạm nên
leo mãi leo hoài vẫn không lên nổi cái lon hạ sĩ trong khi đã đeo binh nhất từ
trước khi về đại đội cũng có đến ba năm. Khải mang máy đại đội nên là tay thân
tín của đại đội trưởng, thay vì chạy theo đại đội trưởng vừa đỡ mệt vừa có cả gạo
sấy thịt hộp, Khải máy lại chạy với tôi, lãnh đủ cả đói lẫn mệt.
Phước râu là hạ sĩ, đã có một thời
gian năm 72 làm quyền tiểu đội trưởng khi còn là binh nhất, trong khi với Thủy
Quân Lục Chiến, hạ sĩ mới hy vọng mon men được đến cái chức tiểu đội phó. Hạ sĩ
Phước là tay đánh giặc có hạng nhưng cũng là tay cứng đầu, nên vừa rồi đã được
đại đội trưởng "trân trọng kính mời" ra khỏi đại đội để qua đại đội mới
là đại đội 3. Là một con cáo già trong những trận đánh, đồng thời Phước râu
cũng là một tay kinh nghiệm đầy mình trong những đợt "di tản chiến thuật".
Bây giờ Phước râu tự ý lấy thân che đạn cho tôi trong khi tôi không còn là cấp
chỉ huy của anh chàng.
Ba thầy trò tôi chạy dĩ nhiên là chậm
so với những người cùng chạy nên cứ tụt dần về phía sau. Nhưng dòng người hình
như vô tận nên chúng tôi dù có bị tụt dần vẫn không phải là những thằng sau
chót.
Lại rất nhiều người bị bắn ngã từng
chặng từng chặng khi chạy qua những cái chốt của Việt Cộng. Chưa bao giờ bọn
chó má này được bắn sướng tay đến như vậy. Mỗi tràng đạn ít ra cũng phải trúng
vài ba người. Nhưng ai ngã mặc ai, những người chạy vẫn cứ chạy.
Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ
họ không tự tử từng người, từng cá nhân mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn
và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè
đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc.
Dòng người chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người
khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ
năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ
bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi tiếp tục chạy, lại
một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư...
nhập bọn, lại tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, lại một quả lựu đạn nổ bung
ở giữa.
Dòng người chúng tôi vẫn cứ tiếp tục
chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người
thứ tư...
Tôi không thể nhớ để mà đếm nổi là đã
có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa những vòng tròn người như vậy. Nhiều, thật
nhiều quả lựu đạn đã nổ.
Chúng tôi vẫn cứ chạy, những người tự
tử tập thể vẫn cứ tụm thành những vòng tròn, quân đội Nhật năm 45 khi đầu hàng
cũng không thể nào hào hùng hơn thế này được. Lịch sử Việt Nam chưa thấy viết một
dòng nào về những cái chết hiên ngang của những thằng tốt đen như vậy, nhưng họ
có đó, vẫn oai hùng khí phách chấp nhận những cái chết vô danh như vậy.
Chúng tôi vẫn cứ chạy, khi ngang qua
những cái chốt của Việt Cộng, những người bị bắn trúng vẫn cứ ngã, những người
tự tử vẫn cứ nổ lựu đạn. Ngoài biển vẫn có ánh đèn của những chiếc tàu qua lại.
Những người phía trước chạy chậm dần,
chậm dần rồi ngừng lại.
Trong suốt thời gian chạy tôi nghe đủ
thứ tiếng, tiếng chân, tiếng thở, tiếng sóng, tiếng súng, tiếng lựu đạn nhưng
không nghe tiếng nói. Bây giờ mới bắt đầu ồn ào tiếng người.
"Ðụ mẹ, sao không chạy tiếp?"
"Chắc đến cửa Tư Hiền rồi."
"Cửa Tư Hiền còn xa, chắc gặp tiểu
đoàn 8 lên đón."
"Ông thầy cho em miếng nước."
"Ðụ mẹ, tao là lính chứ đâu phải
sĩ quan mà kêu tao ông thầy."
"Thì đàn anh cho đệ tử một hớp."
"Hớp cái con cặc, bộ mày không
có bình toong à!"
Nghe đến nước, tôi mới thấy là mình
cũng đang khát. Tôi liếm môi chịu đựng. Nhìn bình nước trên tay người vừa chửi
thề, thèm thuồng. Cố tưởng tượng rừng me của Tào Tháo, vô ích, cổ tôi vẫn khô
ran, không có tí nước bọt nào để mà nuốt.
Phước râu biết ý, ngoại giao.
"Anh cho trung úy tôi một hớp."
Người có bi đông nước nhìn tôi.
"Trung úy thiệt không đó
cha?"
"Thiệt mà, ổng là đại đội phó
tui."
Anh ta đưa bình nước cho tôi.
"Một hớp thôi nghe ông."
Sau khi làm một ngụm nước, tôi mới có
thể nói được.
"Cám ơn bạn."
Việt Cộng xuất hiện, chĩa súng về
phía chúng tôi ra lệnh.
"Ði một hàng dọc lên đàng trước"
Một giọng khác có vẻ là cấp chỉ huy.
"Tất cả giơ tay lên!"
Có tiếng trả lời.
"Bắt thì bắt, không giơ
tay."
"Bọn này ngoan cố, không hàng,
chúng ông bắn bỏ mẹ."
Nhiều tiếng nói trong chúng tôi vang
lên.
"Bị bắt là tù binh, giơ tay hàng
tụi nó coi mình là hàng binh. Không giơ tay"
Nhất loạt chúng tôi không ai giơ tay,
chỉ nối đuôi nhau thành một hàng dọc đi tới. Ðang đi một hàng dọc như vậy, một
người tách ra khỏi hàng, chạy ào ra ôm cứng lấy một tên Việt Cộng. Tiếng lựu đạn
nổ, cả hai ngã vật ra chết.
Một người khác lại chạy ào ra ôm cứng
một tên Việt Cộng khác, lại một tiếng lựu đạn nổ, lại cả hai ngã bật ra chết.
Chúng tôi và Việt Cộng vẫn còn đang ở
trong thế gờm nhau, chúng tôi đông nhưng đã mất chỉ huy và không có vũ khí, Việt
Cộng tuy xuất hiện ít nhưng có súng.
Tôi nghe Việt Cộng nói với nhau.
"Bọn lính thủy đánh bộ này thằng
nào cũng ngoan cố. Chắc chắn tụi nó còn lựu đạn trong người."
Một tên Việt Cộng, tên này chắc chắn
là du kích nằm vùng vì đang xúng xính trong áo cà sa, đầu trọc lóc, đúng là một
ông sư nhưng thay vì tay cầm mõ cầm nhang, lại lăm lăm một khẩu AK, mồm thay vì
nói kinh nói Phật, lại ra lệnh cho chúng tôi.
"Chúng mày còn giấu lựu đạn
trong người. Tất cả cởi hết quần áo ra!"
Chúng tôi nhìn nhau, chưa có phản ứng
gì, tên sư du kích quát lên.
"Ðứng lại! Cởi hết quần áo
ra!"
Một người lính buột miệng hỏi:
"Cởi quần áo ra có bị coi là hàng binh không?" Cả chúng tôi lẫn Việt
Cộng đều phì cười. Có lẽ tiếng cười đã làm không khí căng thẳng dịu lại.
Chúng tôi cởi quần áo ra rồi tiếp tục
đi tới.
Ðã có rất nhiều người bị bắt tập họp thành
từng khối, ngồi quay lưng ra biển. Những người này không bị cởi quần áo như
chúng tôi - những thằng bị bắt sau.
Ba thầy trò tôi ngồi nối đuôi nhau
thành một hàng dọc trong khối mới bị bắt.
Phước râu nói với tôi.
"Ông khai là lính thôi nghe ông
thầy."
"Sao vậy?"
"Mình đi chung có gì tui còn lo
cho ông được."
"Ðâu được mậy, mình bị bắt cả đơn
vị, tụi nó điều tra thế nào cũng lòi ra."
"Nhưng ông đâu đủ sức sống một
mình trong tù."
"Nhằm nhò gì, ở tù ít tháng thôi
chứ mấy, mà để coi ra sao đã."
Có tiếng nói từ trong đám tù binh.
"Yêu cầu cho nước uống."
Nhiều tiếng khác vang lên, lúc đầu
còn rời rạc, càng lúc càng ăn nhịp dần, cuối cùng có cả tiếng vỗ tay bắt nhịp.
"Nước! Nước! Nước!"
Cứ như vậy cho đến khi nước uống được
hai ả du kích cái mang ra.
Nhiều người bu lại uống nước, lúc đầu
còn uống tử tế, đến thùng thứ ba được mang ra, cũng vẫn nhiều người bu lại, nhưng
chỉ một số người uống nước, số khác giả vờ chen lấn giành nước để bóp vú hai ả
du kích.
Nhiều tiếng chí chóe vang lên. Tên Việt
Cộng đứng ngoài hắng giọng hỏi.
"Cái gì ồn ào thế?"
Thùng nuớc được hất đổ kèm theo nhiều
tiếng nói.
"Hết nước rồi, yêu cầu cho
thêm."
Tên Việt Cộng đứng ngoài ra lệnh.
"Ðề nghị hai đồng chí mang thêm
nước."
Khi thùng nước kế tiếp được mang ra,
màn bóp vú lại tái diễn, và khi hai nữ đồng chí được đề nghị mang thêm nước lần
nữa thì trốn luôn.
Không còn nước, không còn đàn bà, mọi
người ngồi trở lại trong hàng. Một người lính vừa ngồi xuống bên cạnh quay sang
nhìn tôi cười.
"Ðụ mẹ, bị bắt mà còn được bóp
vú Việt Cộng, đã quá!"
Sau khi đếm người xong, Việt Cộng đưa
chúng tôi vào sân của một trụ sở ấp.
Tôi hỏi giờ một người đeo đồng hồ.
Ðúng 12 giờ khuya ngày 26 rạng 27 tháng Ba.
Nghe đâu làng này có cái tên rất độc
đáo: làng Cự Lại.
Ngày 26 tháng Ba là ngày Người Cày Có
Ruộng.
Ngày 26 tháng Ba là ngày cả một lữ
đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích Việt Cộng bắt sống.
Chuyện không bao giờ tin được đã xảy
ra.
Hỏi trời, hỏi đất, hỏi lính, hỏi
quan. Hỏi ai đây, trách nhiệm ai đây về chuyện ô nhục này của quân sử?
Tôi sực nhớ đến câu có vẻ cải lương
nhưng ngẫm thấy cũng có lý: "Làm trai không sợ gì sương gió, chỉ sợ đời
không có gió sương". Chúng tôi những thằng lính tình nguyện về một binh chủng
thừa mứa gió sương, và bây giờ bị Việt Cộng bắt, chúng tôi sắp sửa được hưởng một
cuộc sống chắc chắn là không thiếu gì sương gió, không hiểu một tên lính nào đó
khi xâm hàng chữ này vào người có nghĩ đến hoặc có tiên đoán đến ngày hôm nay,
ngày 26 tháng Ba này không?
Phước râu lại dặn dò tôi.
"Ông thầy nhớ khai là lính
nghe."
Lúc trời gần sáng, Việt Cộng yêu cầu
ai là sĩ quan tập họp riêng ở gần cổng trụ sở ấp.
Lúc đầu còn lác đác nhưng rồi chỗ tập
họp riêng cho sĩ quan đông dần, hình như chẳng còn thiếu ai, ngoại trừ mấy ông
cấp tá.
Tôi gặp trung úy Gắt, thiếu úy Dzu,
Huy mập, Du Hồ. Tôi lại gặp Sĩ tiểu đoàn 2 Pháo binh.
Tôi còn gặp cả một thằng bạn cũ cùng
học với nhau hết bậc trung học ở trường Nguyễn Trãi, Vũ Ðức Giang, khi chúng
tôi đang bị trói chung bằng một sợi dây điện dài. Tôi ngạc nhiên kêu lên.
"Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt
ở đây?"
"Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại
mày."
"Tao hỏi mày làm cái giống gì mà
cũng bị bắt ở đây?"
"Tao Thủy Quân Lục Chiến."
"Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày mà
cũng dám giết người à? Mà sao ở Thủy Quân Lục Chiến, tao không gặp mày?"
"Tao mới ra trường về Thủy Quân
Lục Chiến khoảng nửa tháng nay."
"Mày bác sĩ à?"
"Ừ, tao về tiểu đoàn 7."
"Tội nghiệp thằng bé, mày cũng sợ
đời không có gió sương à?"
Giang ngơ ngác.
"Gió sương gì? Cởi trần ngồi suốt
đêm ngoài trời thế này mày bảo không bị sương à?"
Trời sáng rõ.
Mấy tên Việt Cộng gác chúng tôi cầm
súng đi qua đi lại trước cổng. Một tên đứng gác trên chòi canh. Dân chúng bu
sát vào hàng rào tò mò nhìn chúng tôi. Nhiều người đã cầm sẵn trên tay rổ khoai
lang khoai mì để bán cho chúng tôi.
Những người bị bắt trước tôi không bị
cởi quần áo nên họ có tiền, và vì là lính nên không bị trói, ra sát hàng rào
mua bán với dân chúng.
Bọn Việt Cộng cố gắng ngăn cản vụ mua
bán nhưng không nổi, cuối cùng đành phải ngó lơ. Nhiều người lính đem khoai sắn
đến đút cho chúng tôi ăn.
Số sĩ quan chúng tôi cũng có đến cả
trăm mạng, bị trói quặt cánh tay ra sau, nối tiếp nhau bằng sợi dây điện dài. Một
số đã bị trói bằng dây kẽm vì không đủ dây điện. Lợi dụng lúc lộn xộn không có
hàng ngũ gì, chúng tôi đã bàn với nhau.
"Nếu được đi chung với lính thì
thôi, còn nếu bị dắt đi riêng ra phía biển, tức là bị đem đi bắn, chúng tôi sẽ
cướp súng bắn lại"
Ðằng nào cũng chết, cướp súng bắn lại
ít ra cũng giết gỡ được vài mạng.
Phước râu, Khải máy, trung sĩ Khang
cũng bu đến chỗ tôi ngồi. Tôi nói đủ cho mấy đứa nghe.
"Khang đứng lùi ra che mắt mấy
thằng gác, thằng Khải xin miếng khoai đút tao ăn, còn thằng Phước ngồi xuống nới
lỏng dây trói cho tao."
Tôi dặn thêm Phước râu.
"Nới lỏng vừa đủ để nếu cần, rút
tay ra được. Lỏng quá dễ bị bể."
Bằng cùng một cách này, tất cả dây
trói chúng tôi lần lượt đều được nới lỏng.
Những tin đồn về mấy ông tiểu đoàn trưởng
của chúng tôi được loan truyền.
"Chính mắt thằng A thấy ông Cang
bắn súng vào đầu tự tử."
"Chính mắt thằng B thấy ông Tiền
tự tử chung với mấy người nữa bằng lựu đạn."
"Thằng C đã vuốt mắt cho ông Sử ở
bờ biển sau khi ông ta tự bắn vào đầu."
"Chính mắt thằng này ..."
"Chính tay thằng nọ ..."
Những lời đồn đã làm chúng tôi hãnh
diện, những lời đồn đã giúp chúng tôi thản nhiên ngồi chờ Việt Cộng dắt ra bờ
biển. Nhưng rồi, quá nhiều lời đồn không giống nhau, có khi trái ngược hẳn nhau
dần dần khiến chúng tôi nghi ngờ. Không lẽ một người mà vừa tự tử bằng súng, vừa
tự tử bằng lựu đạn lại vừa trốn vào nhà dân mướn ghe, mướn tài công để chạy ra
biển.
Tôi hỏi một người vừa nói với tôi là
ông Tiền tự tử.
"Mày có trông thấy ông Tiền cầm
súng bắn vào đầu không?"
"Em không thấy nhưng thằng A nói
chính thằng B trông thấy".
Tôi hỏi một người khác nói về ông
Cang.
"Mày có thấy ông Cang tự tử
không?"
"Chính thằng tà lọt của ông Cang
nói với em."
Tôi nghĩ bụng, lính đồn nhiều khi rất
đúng, nhưng lúc này thực ra chỉ là để thỏa mãn một nhu cầu. Những lời đồn hiện
đang được loan truyền chỉ có thưởng chứ không có phạt trong lúc này.
Khoảng 9 giờ sáng, Việt Cộng kiểm điểm
số sĩ quan chúng tôi rồi bắt đi một hàng dọc ra khỏi cổng trụ sở ấp.
Trước khi đi, chúng tôi đã nhìn nhau
ngầm ra hiệu.
Ra khỏi cổng trụ sở ấp, qua khỏi cổng
chùa nằm ngay cạnh ấp, chúng tôi tập họp lại thành nhiều hàng ngang. Việt Cộng
ra lệnh ngồi đợi. Ðợi cái gì chúng tôi không biết.
Dân chúng vẫn bu quanh hàng rào để
buôn bán. Lính tráng bị giữ trong trụ sở ấp vẫn ồn ào; tôi còn nghe cả tiếng ca
hát nữa. Họ quả là những người thật vô tư.
Một người trong hàng chúng tôi lên tiếng.
"Yêu cầu các anh cho lấy trả
chúng tôi quần áo."
Tên Việt Cộng đứng canh chúng tôi hống
hách.
"Cái gì của chúng mày, quần áo
gì của chúng mày. Tất cả mọi thứ là của nhân dân, chúng mày không có quyền đòi
cái gì hết."
Chúng tôi cười ồ lên, nhiều người
tranh nhau nói.
"Té ra người dân nào cũng là Thủy
Quân Lục Chiến hết à?"
Không hiểu tên Việt Cộng vì không hiểu
câu nói hay vì không nghe rõ nên tiếp tục hùng hổ.
"Ðến nước này chúng mày còn lôi
Thủy Quân Lục Chiến ra dọa nữa hả? Ông cho chúng mày một tràng đạn xong đời
chúng mày bây giờ."
Trong hàng lại ào ào lên tiếng.
"Bắn đi."
"Có giỏi bắn ngay bây giờ
đi."
Trong lúc nói ào ào lên như vậy, mọi
người chúng tôi tuy tay vẫn để quặt ra sau lưng nhưng đã rút ra khỏi dây trói.
Tất cả đều ở tư thế sẵn sàng.
Tên Việt Cộng mặt mũi còn non choẹt,
không biết phải có thái độ như thế nào trong hoàn cảnh này nên lính qua lính
quýnh, tay nắm thật chặt khẩu súng chĩa thẳng vào chúng tôi, chân bước giật lùi
mấy bước, mắt ngó dáo dác cầu cứu, mồm lắp ba lắp bắp.
"À, chúng mày làm loạn, chúng
mày làm loạn."
Một tên Việt Cộng khác có lẽ cấp bậc
lớn hơn từ trong chùa đi ra hỏi.
"Cái gì đấy đồng chí?"
"Bọn này làm loạn."
Tên mới ra này nhìn anh em chúng tôi.
"Yêu cầu anh em giữ trật tự. Anh
em cần gì cứ cho chúng tôi biết nhưng không được làm ồn ào."
"Chúng tôi yêu cầu trả quần áo lại
cho chúng tôi."
"Ðược rồi, anh em ngồi đợi tôi
cho người đi lấy."
Tên này quay vào chùa, cho thêm mấy
tên nữa tăng cường để gác chúng tôi.
Những bàn tay đã rút ra khỏi dây
trói, được ý tứ đút trở lại. Mấy người dân ôm từng ôm, từng ôm quần áo của
chúng tôi bị vứt bỏ dưới bờ biển tối hôm trước lên để thành từng đống trước mặt
chúng tôi.
"Yêu cầu cởi trói để chúng tôi mặc
quần áo."
Tên Việt Cộng hùng hổ lúc nãy lại tiếp
tục sừng sộ.
"Cởi trói để chúng mày làm loạn
à?"
"Không cởi trói sao mặc quần áo
được?"
"Mặc sao được kệ chúng
mày."
Chúng tôi lại ào ào lên. Tên Việt Cộng
có vẻ là cấp chỉ huy lại từ trong chùa đi ra, trông thấy đống quần áo.
"Sao chưa phát quần áo cho người
ta", - quay sang phía chúng tôi, tên này nói tiếp -,
"các anh lại ồn ào cái gì nữa?"
"Yêu cầu phát quần áo và cởi
trói cho chúng tôi để chúng tôi mặc."
Tên này đứng suy nghĩ có vẻ lung lắm.
Tôi chờ đợi và suy nghĩ cũng không
kém. Số phận của chúng tôi đã được quyết định sẵn, và quyết định như thế nào
chúng tôi có thể đoán được tùy theo việc của chúng tôi được cởi trói hay không.
Nếu không được cởi trói, chắc chắn chúng tôi sẽ bị bắn rất sớm. Còn nếu được cởi
trói, không hẳn là chúng tôi sẽ không bị thanh toán nhưng thời gian còn hơi
lâu, có thể là cuối ngày, có thể nửa đêm, có thể là phải đợi cho đến khi nào bọn
chúng có đủ phương tiện mang chúng tôi đi xa, thật xa những người lính để họ
không hay biết gì.
Quần áo cũng đã được mang vào trong
vòng rào trụ sở ấp để phát cho lính. Quần áo chất đống trước mặt chúng tôi được
ném đến từng người tuy chưa đủ. Như vậy chắc chắn chúng tôi sẽ được cởi trói,
nhưng cũng chẳng ai cấm bọn chúng chỉ cởi trói để chúng tôi mặc quần áo rồi sau
đó lại trói lại.
Tôi cười một cách đau khổ. Nếu cởi
trói luôn, mọi chuyện sẽ tiến triển tốt đẹp, nhưng nếu bị trói lại hóa ra chúng
tôi lỗ vốn quá nặng vì hiện giờ trên nguyên tắc là chúng tôi bị trói nhưng trên
thực tế, chúng tôi muốn rút tay ra lúc nào cũng được. Sau khi mặc quần áo xong,
bị trói trở lại, chắc chắn tay chúng tôi sẽ bị trói thật chặt. Bị trói chặt cả
trên nguyên tắc lẫn thực tế. Nếu bị đem đi bắn, khả năng chống cự của chúng tôi
sẽ yếu hẳn đi, chưa chắc đã giết gỡ được tên Việt Cộng nào.
Tên chỉ huy có khuôn mặt cáo già, sau
một hồi suy nghĩ đã ra lệnh cởi trói cho chúng tôi.
Cũng may, Việt Cộng cởi trói cho người
ngồi ở đầu mỗi hàng, rồi sau đó chúng tôi lần lượt cởi trói cho nhau, nên bọn
chúng không biết được là dây trói chúng tôi thực sự đã lỏng le lỏng lét.
Quần áo được phát sao mặc vậy nên
trông chúng tôi rất tức cười. Tôi, tiểu đoàn 4 mặc áo có bảng tên của tiểu đoàn
3, thằng tiểu đoàn 3 mặc áo của tiểu đoàn 5; thằng to như trâu nước mặc áo quá
nhỏ không thể cài cúc, thằng nhỏ con mặc áo rộng thùng thình, nếu đứng dậy ai
cũng phải nghĩ là cởi truồng vì cái áo dài che luôn cả quần lót.
Chúng tôi chẳng thằng nào buồn đổi áo
cho thằng nào, cứ vậy ngồi nhìn nhau khúc khích cười như một lũ con nít.
Chúng tôi bị trói trở lại. Quả thật
là đau, đòi mặc quần áo chỉ là một cái cớ để được cởi trói, bây giờ mặc quần áo
rồi, bị trói trở lại, chúng tôi chẳng còn nhờ được ai nới dây trói cả. Nhưng đã
dự trù việc này nên lợi dụng lúc mặc áo, chúng tôi đã bứt đứt sợi dây điện ở
nhiều khúc nên khi bị trói lần thứ nhì này, chúng tôi chỉ còn bị trói chung từng
tốp vài ba mạng, xoay trở chắc chắn dễ dàng hơn là bị trói chung nhiều người
vào một sợi dây dài.
Thua keo này bày keo khác! Bắt đầu có
người đòi uống nước, đồng thời có người đòi đi đái, có người đòi đi ỉa.
Chúng tôi có cả một lực lượng lính
hùng hậu không bị trói ở gần đó đang theo dõi chúng tôi, nên Việt Cộng dù có muốn
cũng chưa dám hành hạ chúng tôi. Nước được đem ra và chúng phải bưng cho từng
người chúng tôi uống. Những người đòi đi đái đi ỉa được cởi trói dẫn ra phía bờ
biển. Chúng tôi tiếp tục đòi uống nước, đòi đi đái, đòi đi ỉa loạn xà ngầu lên.
Bọn Việt Cộng phần cho người đi lấy nước, phần phải bưng nước cho chúng tôi uống,
phần phải cởi trói dẫn chúng tôi đi đái đi ỉa, phần phải trói lại những người
đi ỉa đái về, phần lại còn phải canh gác chúng tôi nhưng vì không đủ người nên
nhiều người trong chúng tôi đã không kịp bị trói lại.
Cuối cùng có quyết định của tên chỉ
huy là cởi hết dây trói chúng tôi, với điều kiện chúng tôi phải giữ trật tự, ngồi
trong hàng. Muốn gì giơ tay xin từng người một.
Chúng tôi được cởi trói.
Ông sư bắt chúng tôi tối hôm qua từ
trong chùa đi ra, đi dép vỏ xe, mặc áo lam già, vai khoác AK, đầu trọc lóc
không mũ được che bằng cái khăn mù xoa buộc túm bốn góc, vừa cười vừa nói với
chúng tôi.
"Chào anh em, anh em có khỏe
không?"
"Bị bắt mà khỏe mẹ gì!"
"Anh em đừng nghĩ là mình bị bắt.
Anh em phải lấy làm sung sướng vì mình được nhân dân và cách mạng giải phóng ra
khỏi guồng máy chiến tranh xâm lược phản dân hại nước của bọn Mỹ Ngụy."
"Ông lầm rồi, chúng tôi chiến đấu
để bảo vệ tự do, chúng tôi đâu có xâm lược ai."
"Anh em không xâm lược, anh em
làm bia đỡ đạn cho bè lũ xâm lược. Tổ quốc đứng về phía chúng tôi. Bây giờ anh
em về với nhân dân, cách mạng có nhiệm vụ phải bảo vệ anh em, lo lắng và giúp đỡ
anh em. Anh em sẽ được giáo dục để trở về đứng cùng một chiến tuyến với cách mạng,
với nhân dân. Anh em hãy theo gương trung đoàn 56 của trung tá Phạm Văn Ðính,
cách mạng đã đối xử một cách rất khoan hồng, lại còn cho giữ nguyên quân hàm
cũ."
Người ngồi cạnh tôi, giơ tay lên vừa
cười vừa nói.
"Vậy đồng chí cho xin điếu thuốc."
Nhà tu hành đang tươi cười "thuyết
pháp", chợt sa sầm mặt xuống, chụp ngay cổ áo người vừa nói, giựt giựt mấy
cái, vừa giựt vừa gằn từng tiếng.
"Ai là đồng chí với mày, mày là
kẻ thù của tao. Không có chính sách khoan hồng của cách mạng thì mày đã toi đời
rồi con ạ."
Chúng tôi ngồi nháy mắt nhìn nhau cười.
Dân làng gánh những thúng cơm đến
phát cho chúng tôi. Mỗi phần ăn được chừng một bát cơm và một miếng cá khô gói
trong lá chuối. Phần ăn dù ít cũng không đủ để phát đều cho tất cả chúng tôi.
Lý do khá giản dị là không ai tưởng tượng nổi con số chúng tôi bị bắt đông đến
như vậy.
Khoảng 2 giờ trưa, bọn Việt Cộng được
tăng cường thêm bộ đội chủ lực đến, di chuyển tất cả tù binh chúng tôi ra phá
Tam Giang đợi gọ để đi sâu vào trong đất liền.
Tại bờ phá, khi không còn bóng dáng
người dân nào, chúng tôi bắt đầu được nếm mùi thổ phỉ, kẻ bị tước bút, người bị
lột đồng hồ, kẻ bị tháo nhẫn, người bị gỡ dây chuyền. Nhiều tên du kích mặt mũi
non choẹt, chừng mười lăm, mười bảy tuổi vác M-16, vác AK la hét, chửi mắng chúng
tôi.
"Thằng này đeo nhiều bút chắc chắn
phải là thằng chỉ huy cấp lớn, lột hết bút nó đi."
"Thằng này để nhiều râu chắc chắn
phải là thằng sĩ quan, lột đồng hồ của nó ra."
Thôi thì có quá nhiều lý do
"chính đáng" để chúng tôi bị lột sạch. Thậm chí đến sợi dây kim loại
để đeo thẻ bài chúng tôi cũng bị lột với lý do là phương tiện chiến tranh của
quân đội Ngụy.
Ưu tiên sĩ quan chúng tôi qua phá trước
hết.
Trong khi tập họp đợi tất cả mọi người
qua phá, một tên hình như là cán bộ chính trị đứng thao thao bất tuyệt với
chúng tôi.
Nào là quân đội nhân dân là quân đội
bách chiến bách thắng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng.
Nào là các anh là những người may mắn
đã được nhân dân và cách mạng giải phóng khỏi gông xiềng của Mỹ Ngụy.
Nào là chính sách khoan hồng nhân đạo
của chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đối với tù tàn binh biết ăn
năn hối cải.
Nào là thành phố Ðà Nẵng đang bị bao
vây mọi mặt, mọi phía từ đường núi, đường bộ, đường biển đến vùng trời.
Một người đứng lên hỏi.
"Xin anh giải thích cho chúng
tôi một số điều, thứ nhất hành động chôn người tập thể tại Huế trong trận tết Mậu
Thân và bắn giết bừa bãi những người dân vô tội tại đại lộ kinh hoàng năm 72,
thứ nhì, tại sao mang tiếng là xâm lược mà khi chúng tôi rút khỏi Quảng Trị và
Huế, dân chúng lại bỏ chạy hết vào Ðà Nẵng và Sài Gòn để tránh nạn Cộng Sản, thứ
ba, anh giải thích thế nào về hành động quân đội nhân dân của các anh đã và
đang cướp bóc ở bên kia phá, thứ tư, chúng tôi sử dụng súng đạn của đế quốc Mỹ
hay mấy anh sử dụng súng đạn của Cộng Sản Nga, Tàu để tàn sát đồng bào, thứ
năm..."
Tên cán bộ chính trị Việt Cộng tức giận
ngắt lời và ra lệnh cho bọn thủ hạ.
"Lôi cổ thằng ngoan cố này ra
ngoài" - quay sang chúng tôi, hắn gằn giọng - Các anh phải biết Đảng và
nhân dân chỉ khoan hồng cho người nào thực sự biết ăn năn hối cải, còn tên nào
ngoan cố chỉ có hại vào thân thôi."
Nói xong, tên này hầm hầm đi ra
ngoài.
Chúng tôi nghe một tiếng súng nổ ở
phía phá Tam Giang.
Khi mọi người đã qua phá xong, chúng
tôi bị dẫn đi dọc theo con đường đất quanh co hướng về phía quốc lộ 1.
Lúc nãy, ở bờ phía bên kia phá, chúng
tôi được nếm mùi cướp bóc, thổ phỉ, và bây giờ trên con đường đất hai bên là ruộng,
là lùm, là bụi này, chúng tôi được thưởng thức món giết người.
Ðoàn tù chúng tôi đi thất thểu trên đường,
đoành một tiếng, một xác người ngã xuống bờ ruộng, đoành một tiếng, một xác người
nữa ngã xuống bờ ruộng. Một người đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu, máu và
óc văng dính cả vào người tôi.
Trò bắn giết rất kỳ cục và khó hiểu.
Những người bị bắn chết và những người không bị bắn -hay chưa bị bắn- đều không
hiểu tại sao bọn Việt Cộng lại bắn người này mà không bắn người kia. Tại sao thằng
Việt Cộng này không bắn người này mà bắn người nọ? Chúng tôi rất hoang mang nhưng
lúc này không ai có phản ứng gì, mọi người vẫn cứ lầm lũi, thất thểu đi. Ðói,
khát, mệt mỏi và luộm thuộm lếch thếch, chúng tôi đi, hoang mang không hiểu bao
giờ đến lượt mình bị bắn.
Số người bị bắn mỗi lúc dĩ nhiên mỗi
nhiều hơn. Tất cả lon lá đã được gỡ ra từ sáng, khi chúng tôi mới nhận được quần
áo mang từ bờ biển vào. Râu ria trên mặt biểu hiệu cho chức cấp hiểu theo nghĩa
Việt Cộng cũng không phải, vì nhiều người để râu, trong đó có cả tôi, không hay
chưa bị bắn, nhiều người râu ria nhẵn nhụi đã bị bắn.
Mãi về sau, khi nghe được bọn Việt Cộng
cầm súng đi tìm người để bắn nói chuyện với nhau chúng tôi mới vỡ lẽ ra. Những
tên Việt Cộng nào đã từng bị tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến nào đánh cho xất bất
xang bang lúc trước, lúc này cứ đi tìm huy hiệu và bảng tên của tiểu đoàn đó mà
bắn.
Người mặc áo có gắn phù hiệu của tiểu
đoàn 5 không bị thằng Việt Cộng này bắn nhưng bị thằng Việt Cộng khác bắn. Người
mặc áo có gắn phù hiệu tiểu đoàn 3 bị bắn bởi thằng Việt Cộng không bắn người mặc
áo của tiểu đoàn 4.
Chúng tôi lột hết bảng tên và phù hiệu
tiểu đoàn.
Cuộc bắn giết thưa dần rồi chấm dứt.
Chúng tôi bị đưa về căn cứ La Sơn nhốt
tạm để sau đó, hạ sĩ quan và binh sĩ bị đưa nhốt ở Khe Tre, Nam Ðông. Ðám sĩ
quan chúng tôi bị đưa về cây số 23, gần ngay chỗ Ban chỉ huy tiểu đoàn 4 ít
ngày trước, đối diện với làng Ðồng Lâm.
Khoảng giữa tháng Tư, chúng tôi bị đưa
về trại tù binh chính thức nằm phía bắc Khe Sanh, sát biên giới Lào, ở ngay đầu
nguồn sông Bến Hải.
(Hết)
No comments:
Post a Comment